Lào Cai Online – Quy định tổ chức thi đánh giá năng lực ngoại ngữ và tổ chức thi đánh giá năng lực tiếng Việt sẽ có nhiều sửa đổi đáng quan trọng.
![]() |
PGS.TS Nguyễn Văn Long – Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại ngữ (Đại học Đà Nẵng). Ảnh: Hà Nguyên. |
Bộ GD&ĐT công bố dự thảo Thông tư quy định tổ chức thi đánh giá năng lực ngoại ngữ và tổ chức thi đánh giá năng lực tiếng Việt thay thế các Thông tư hiện hành
Quảng Cáo
Nhận định những điểm mới, PGS.TS Nguyễn Văn Long – Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại ngữ (Đại học Đà Nẵng) đồng thời đưa ra các góp ý nhằm hoàn thiện dự thảo Thông tư này, giúp quy định khả thi, đồng bộ hơn khi triển khai
Quảng Cáo
Nhiều điểm mới đáng chú ý
– Theo ông, đâu là những điểm mới đáng chú ý trong Dự thảo Thông tư quy định tổ chức thi đánh giá năng lực ngoại ngữ và tổ chức thi đánh giá năng lực tiếng Việt Bộ GD&ĐT công bố mới đây?
Tôi cho rằng, dự thảo Thông tư quy định tổ chức thi đánh giá năng lực ngoại ngữ và tổ chức thi đánh giá năng lực tiếng Việt có những điểm mới đáng chú ý sau:
Thứ nhất: Dự thảo tích hợp hai chế định thi: thi đánh giá năng lực ngoại ngữ và thi đánh giá năng lực tiếng Việt cho người nước ngoài. Việc này giúp giảm sự phân tán, chồng chéo, dễ tra cứu, dễ áp dụng cho các đơn vị tổ chức thi.
Thứ hai, yêu cầu rõ hơn về trách nhiệm toàn diện, phân công nhiệm vụ, tính công bằng, minh bạch. Dự thảo nhấn mạnh, đơn vị tổ chức thi phải xây dựng và triển khai các giải pháp bảo đảm an toàn, khách quan, công bằng, nghiêm túc; phân công rõ trách nhiệm cho từng bộ phận, công tác bảo mật đề thi được quy định chặt chẽ trước, trong và sau kỳ thi. Đây là cách tiếp cận quản lý rủi ro và trách nhiệm rất cần thiết nếu muốn giảm sai phạm, sự không minh bạch trong tổ chức thi.
Thứ ba, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong toàn chu kỳ thi. Việc áp dụng công nghệ trong đăng ký, quản lý, tổ chức thi, chấm thi, công bố kết quả, hỗ trợ thí sinh được đề cập rõ trong dự thảo. Một điểm mới là “cung cấp hình ảnh thí sinh trong quá trình dự thi” để hỗ trợ xác minh chứng chỉ và đảm bảo tính xác thực của kết quả thi.
Thứ tư, quy định chi tiết hơn về ngân hàng câu hỏi, đề thi, rút đề thi để tổ chức thi. Theo đó, ngân hàng câu hỏi thi phải đảm bảo đủ để tạo ra tối thiểu 70 đề thi cho ngoại ngữ và tối thiểu 30 đề thi cho tiếng Việt. Đề thi được rút ngẫu nhiên từ ngân hàng (với mỗi thí sinh có mã đề riêng; người ngồi cạnh nhau không trùng câu hỏi). Câu hỏi đã dùng chỉ được tái sử dụng sau tối thiểu 12 tháng.
Trước ngày 31/12 hằng năm, đơn vị tổ chức thi ngoại ngữ phải bổ sung đề thi mới vào ngân hàng để dùng cho năm sau. Cho phép các đơn vị dùng chung ngân hàng câu hỏi / đề thi với nhau. Chỉ khi ngân hàng đủ để tạo ra tối thiểu 20 đề thi mới được rút ngẫu nhiên để tổ chức thi, nhằm đảm bảo tính khách quan cho việc rút đề
Thứ năm, quy định rõ và yêu cầu cao hơn về nhân sự chuyên môn tổ chức thi. Cụ thể, bắt buộc có tối thiểu 30 người chuyên môn nếu tổ chức thi tiếng Anh, hoặc 20 người nếu là ngoại ngữ khác hoặc tiếng Việt; trình độ tối thiểu là thạc sĩ trong ngành Ngôn ngữ/Giáo dục (ngoại ngữ) hoặc ngành Ngôn ngữ/Văn học (tiếng Việt). Nhân sự ra đề, chấm thi chỉ được thực hiện đối với các định dạng đề thi bằng hoặc thấp hơn trình độ ngoại ngữ mà họ đã đạt được.
Thứ sáu, cho phép liên kết tổ chức thi, mở rộng thi ở nước ngoài: Dự thảo cho phép các đơn vị được liên kết để mở rộng quy mô tổ chức thi, kể cả việc tổ chức thi ở nước ngoài. Điều này nhằm hỗ trợ nhu cầu học tập, hội nhập quốc tế, phục vụ người Việt ở nước ngoài, lan tỏa giảng dạy tiếng Việt quốc tế.
Tóm lại, dự thảo thể hiện xu hướng chuẩn hóa cao hơn, minh bạch hơn, trách nhiệm rõ ràng hơn và ứng dụng công nghệ mạnh hơn trong tổ chức thi.

Thuận lợi và thách thức
– Từ thực tiễn triển khai ở cơ sở giáo dục, theo ông, những sửa đổi nói trên có phù hợp?
Từ thực tiễn triển khai ở Trường Đại học Ngoại Ngữ, Đại học Đà Nẵng, những sửa đổi này có những điểm phù hợp và có lợi như:
Thống nhất, giảm chồng chéo, thuận tiện trong triển khai: Việc tích hợp hai chế định thi (ngoại ngữ và tiếng Việt) trong một văn bản giúp các trường đại học, trung tâm khảo thí không phải “đọc nhiều thông tư”, so sánh, giải thích chồng chéo giữa các văn bản. Điều này rất cần thiết khi trường vừa tổ chức thi ngoại ngữ, vừa tổ chức thi tiếng Việt cho người nước ngoài.
Ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số: Dự thảo nhấn mạnh điều này rất phù hợp với xu hướng hiện đại hóa thi cử. Việc cung cấp hình ảnh thí sinh trong quá trình thi để phục vụ xác minh sau này giúp giảm rủi ro giả mạo chứng chỉ hoặc gian lận sau khi công bố kết quả.
Cho phép liên kết, tổ chức thi ở nước ngoài: Đây là điểm mở rất có lợi, đặc biệt trường có mạng lưới đối tác quốc tế, có nhu cầu tổ chức thi cho người Việt ở nước ngoài hoặc sinh viên quốc tế. Trường có thể tận dụng cơ sở vật chất, quan hệ quốc tế, hoặc văn phòng đại diện nước ngoài để làm điểm thi.
Tuy nhiên, dự thảo Thông tư cũng đặt ra cho các trường một số khó khăn và vấn đề cần lưu ý, cụ thể như sau:
Thứ nhất là áp lực nhân sự và chi phí. Việc đảm bảo có 30 nhân sự chuyên môn (cho tiếng Anh) hoặc 20 người (cho ngoại ngữ khác/tiếng Việt) có thể là gánh nặng (về lương, đào tạo, cơ chế đãi ngộ). Các nhân sự phải được đào tạo ra đề, chấm nói, chấm viết, có năng lực tổ chức thi, điều này không phải trường nào cũng có sẵn.
Việc xây dựng ngân hàng đề, thử nghiệm, phân tích câu hỏi, tái biên soạn, kiểm định đòi hỏi nguồn lực tài chính, phần mềm khảo thí chuyên dụng, nhân lực phân tích dữ liệu. Việc này nhiều trường chưa quen hoặc chưa có kinh nghiệm.
Thứ hai là vấn đề chia sẻ, phối hợp ngân hàng đề giữa các đơn vị. Mặc dù cho phép “dùng chung ngân hàng đề/câu hỏi giữa các đơn vị”, nhưng việc chia sẻ ngân hàng đề thi giữa các trường đòi hỏi quy chế quản lý rõ ràng, trách nhiệm bảo mật, quyền sở hữu trí tuệ, phân phối truy cập… Nếu không được quản lý tốt, có thể phát sinh lạm dụng hoặc rò rỉ đề.
Thứ ba là rủi ro công nghệ, an ninh mạng. Khi chuyển sang tổ chức thi số, nếu phần mềm khảo thí không an toàn, bị tấn công, bị lọt dữ liệu cá nhân, ảnh thí sinh, đề thi, thì hậu quả rất lớn. Các trường cần đảm bảo an toàn mạng, mã hóa, sao lưu, phân quyền truy cập nghiêm ngặt.
Thứ tư, nếu ngân hàng đề chưa thực sự lớn, quy định “câu hỏi đã dùng chỉ tái sử dụng sau tối thiểu 12 tháng” có thể gây thiếu đề cho các kỳ thi trong năm liên tiếp, đặc biệt nếu có nhiều đợt thi. Trường cần dự trù ngân hàng đề lớn hơn, phát triển liên tục.
Để quy định rõ, khả thi hơn khi triển khai
– Ông có góp ý gì thêm để hoàn thiện dự thảo Thông tư này?
Dưới đây là một số góp ý cụ thể mà tôi cho rằng có thể giúp dự thảo rõ hơn và khả thi hơn khi triển khai:
Liên quan đến cơ chế chia sẻ ngân hàng đề giữa các đơn vị, cần quy định rõ quyền sở hữu, bản quyền, trách nhiệm bảo mật, chi phí sử dụng, phân quyền truy cập đối với ngân hàng đề khi nhiều đơn vị sử dụng chung.
Có thể xây dựng hệ thống trung tâm quốc gia hoặc mạng lưới ngân hàng đề quốc gia, nơi các trường thành viên có thể truy cập theo phân cấp (về mức độ truy cập, loại câu hỏi, đề mẫu). Cùng với đó, quy định rõ quy trình kiểm định, phê duyệt câu hỏi mới, sửa đổi câu hỏi, loại bỏ câu hỏi cũ trong ngân hàng dùng chung.
Về yêu cầu về chuẩn hạ tầng công nghệ và an ninh mạng, cần có hướng dẫn thực hiện Thông tư với yêu cầu “tiêu chuẩn kỹ thuật tối thiểu” đối với hệ thống thi: về máy chủ (có sao lưu, mã hóa), phần mềm kiểm thử, bảo mật, giám sát thi (camera, khóa màn hình, giám sát mạng); quy định rõ trách nhiệm sao lưu dữ liệu, lưu trữ đề thi, bản ghi ảnh / video trong kỳ thi, bảo vệ dữ liệu cá nhân thí sinh.
Cân nhắc mức độ tái sử dụng câu hỏi và đa dạng hóa đề thi. Quy định “câu hỏi đã dùng chỉ được tái sử dụng sau tối thiểu 12 tháng” là khá nghiêm; tôi đề xuất xem xét bổ sung quy định “tái sử dụng có giới hạn đối với câu hỏi có độ khó thấp, hoặc các phần kiểm tra kỹ năng cơ bản”, miễn là đảm bảo không trùng câu hỏi nguyên vẹn giữa các đề thi liên tiếp.
Những góp ý trên nhằm tăng tính khả thi, linh hoạt, bảo đảm công bằng và hỗ trợ các đơn vị khó khăn khi áp dụng.
– Liên quan đến tổ chức thi đánh giá năng lực ngoại ngữ và tổ chức thi đánh giá năng lực tiếng Việt, ông có kiến nghị, đề xuất để nhà trường triển khai tốt hơn hoạt động này?
Tôi đề xuất Bộ GD&ĐT xây dựng cơ chế ngân hàng câu hỏi thi chuẩn quốc gia để các đơn vị được cấp phép có thể sử dụng hoặc mua bản quyền, tránh trùng lặp và giảm chi phí phát triển.
Cùng với đó, triển khai hệ thống xác thực chứng chỉ trực tuyến tập trung để người học, tổ chức và doanh nghiệp dễ dàng tra cứu, xác minh kết quả thi hợp pháp.
Đồng thời, có chính sách hỗ trợ các trường trong việc liên kết với cơ sở đào tạo, đối tác ở nước ngoài, cấp phép linh hoạt để tổ chức thi năng lực tiếng Việt cho người nước ngoài.
– Xin cảm ơn ông!
Trên tổng thể, các sửa đổi trong dự thảo đều mang hướng tích cực, hợp với xu hướng hiện đại hóa, minh bạch hóa và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khả thi khi áp dụng thực tế ở nhiều cơ sở đào tạo, đơn vị khảo thí cần có lộ trình, hỗ trợ kỹ thuật, tài chính và hướng dẫn rõ ràng từ Bộ GD&ĐT và cơ quan khảo thí quốc gia.
Theo Báo Giáo dục và Thời đại Online
Quảng Cáo Liên Quan