Lào Cai Online – Tranh luận về việc chỉ trường chuyên ngành mới được đào tạo bác sĩ và cử nhân luật đang thu hút sự chú ý.
![]() |
| Sinh viên Trường Đại học Luật TPHCM tranh luận tại Cuộc thi Phiên tòa giả định VMoot cấp quốc gia năm 2025. Ảnh: HCMULAW |
Các chuyên gia cho rằng, điều quan trọng không nằm ở danh xưng, mà ở tiêu chuẩn chất lượng và hệ thống bảo đảm thực chất.
Quảng Cáo
Chất lượng mới là điều kiện
Tại buổi thảo luận của Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV về chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 – 2035, một số đại biểu Quốc hội đã nêu ý kiến chỉ trường y mới được đào tạo bác sĩ, hoặc sẽ không cho phép trường không chuyên khoa luật đào tạo cử nhân luật mà có thể dạy luật như một môn phối hợp. Đề xuất lập tức tạo ra nhiều phản hồi từ giới chuyên môn, khi câu chuyện “trường chuyên – không chuyên” chạm đến cả khung pháp lý lẫn triết lý của đại học hiện đại.
Quảng Cáo
TS Đặng Thị Thu Huyền – Trưởng khoa Luật – Trường Đại học Nguyễn Tất Thành cho rằng, việc giới hạn quyền đào tạo dựa trên tên gọi là thiếu thuyết phục nếu nhìn dưới góc độ quản trị hệ thống giáo dục đại học.
Bà phân tích, tại nhiều quốc gia có nền đại học phát triển như Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Canada hay Úc, các chương trình đào tạo bác sĩ và luật được triển khai tại những đại học đa ngành, chứ không gắn với danh xưng Trường Y hay Trường Luật. “Vấn đề không nằm ở tên gọi của trường, mà trọng tâm phải nằm ở điều kiện bảo đảm chất lượng”, TS Thu Huyền nhấn mạnh.
Theo TS Huyền, một hệ thống muốn vận hành hiệu quả phải nhìn vào hệ thống kiểm định chương trình, năng lực đội ngũ giảng viên, điều kiện thực hành – thực tập, hệ sinh thái học thuật và chuẩn đầu ra. Nếu quyền đào tạo phụ thuộc vào tên trường, điều đó không chỉ mâu thuẫn với nguyên tắc tự chủ đại học, mà còn đi ngược lại xu hướng phát triển liên ngành của giáo dục thế giới.
TS Hoàng Ngọc Vinh – nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp (Bộ GD&ĐT), cũng phản đối việc dùng nhãn “trường chuyên Y”, “trường chuyên Luật” để giới hạn quyền đào tạo. Theo TS Vinh, khái niệm này không tồn tại trong bất kỳ văn bản pháp lý nào: “Việc gọi trường chuyên Y, trường chuyên Luật chủ yếu là cách nói quen miệng, thậm chí được nâng thành uy tín truyền thống, không chuẩn pháp lý. Nếu lấy một cái nhãn không có trong luật làm căn cứ để cấm hay cho phép đào tạo thì đang trượt khỏi nguyên tắc quản lý bằng pháp quyền”.
Ông Vinh cho rằng chất lượng của hai ngành đặc thù trên không phụ thuộc vào bảng hiệu treo trước cổng trường mà nằm ở năng lực nội tại của từng chương trình. “Một trường chuyên nhưng chương trình cũ kỹ, thiếu cơ sở thực hành thì vẫn cho ra bác sĩ, luật sư yếu. Ngược lại, trường đa ngành nhưng khoa Y, khoa Luật được đầu tư đàng hoàng, gắn với bệnh viện, tòa án, hãng luật… thì vẫn có thể đào tạo tốt”, TS Vinh nói.
Từ góc nhìn xu thế, TS Vinh cảnh báo nếu siết bằng danh xưng thay vì tiêu chuẩn, hệ quả là tạo ra độc quyền trong đào tạo, thu hẹp cơ hội học tập và làm chậm đổi mới. Ông dẫn chứng y khoa và luật ngày nay đều là lĩnh vực liên ngành, bác sĩ cần hiểu dữ liệu lớn, AI, công nghệ sinh học; luật sư thời công nghệ số phải am hiểu kinh tế, tài chính, công nghệ số. “Nếu trói Y và Luật vào pháo đài chuyên ngành, có thể sẽ tự cắt đứt khả năng bắt kịp các xu hướng liên ngành đó”, ông phân tích.
Cả hai chuyên gia đều khẳng định, đại học hiện đại về bản chất là đa ngành. Vì vậy, điều cần thiết không phải là phân loại trường để cấm hay cho phép đào tạo, mà là chuẩn hóa các tiêu chí đảm bảo chất lượng một cách tiếp cận phù hợp với Nghị quyết 71-NQ/TW về đổi mới giáo dục đại học.

Phải có bộ tiêu chí rõ ràng
Ở góc độ pháp lý, luật sư Hoàng Văn Quang (Công ty Luật Quốc tế FDI) cho rằng, Luật Giáo dục đại học sửa đổi 2018 trao quyền tự chủ học thuật cho các cơ sở giáo dục, đồng thời không phân loại quyền mở ngành theo nhóm trường. Việc mở ngành, theo luật, phải dựa trên các điều kiện cụ thể như đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, nhu cầu nhân lực và kiểm định chất lượng. Vì vậy, ông nhận định, đặt ra quy định chỉ trường y được đào tạo bác sĩ, chỉ trường luật được đào tạo cử nhân luật là không phù hợp với tinh thần tự chủ đại học.
Theo LS Quang, nếu muốn siết chặt đào tạo đối với những lĩnh vực đặc thù này, cần thiết lập một bộ tiêu chí pháp lý rõ ràng, lượng hóa được và áp dụng thống nhất cho tất cả cơ sở. Trước hết là nhóm điều kiện về năng lực đào tạo, bao gồm yêu cầu cụ thể về số lượng và trình độ giảng viên cơ hữu ở các môn học cốt lõi, chuẩn cơ sở vật chất từ phòng thí nghiệm, phòng thực hành đến bệnh viện hoặc trung tâm pháp lý liên kết, cũng như chuẩn chương trình và chuẩn đầu ra.
Bên cạnh đó là nhóm tiêu chí về bảo đảm chất lượng độc lập. Theo đó, mọi chương trình phải được kiểm định bởi các tổ chức độc lập và công khai kết quả để tạo hàng rào kỹ thuật khách quan, hạn chế tối đa cơ chế xin – cho. Cuối cùng là nhóm điều kiện về quy trình thẩm định, phải minh bạch, với tiêu chí đánh giá được công khai và có cơ chế giải trình – khiếu nại, qua đó giảm thiểu tối đa sự can thiệp tùy tiện của cơ quan quản lý.
Quan điểm này nhận được sự đồng tình của luật sư Lê Bá Thường (Viện trưởng Viện Nghiên cứu Pháp luật và Văn hóa Doanh nghiệp). Dẫn chiếu Luật Giáo dục đại học và Nghị định 99/2019/NĐ-CP, ông Thường cho rằng, pháp luật chỉ yêu cầu cơ sở đào tạo đáp ứng các điều kiện về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, chương trình và chuẩn đầu ra, hoàn toàn không phân loại quyền mở ngành dựa trên danh xưng “chuyên” hay “không chuyên”.
Theo ông, việc giới hạn theo nhóm trường tiềm ẩn nguy cơ vi phạm nguyên tắc bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh, có thể gọi là can thiệp hành chính vào quyền tự chủ, tạo ra rào cản không dựa trên tiêu chí chất lượng đào tạo mà dựa trên phân loại chủ quan.
“Cơ chế pháp lý phù hợp nhất là quản lý dựa trên chuẩn năng lực và kiểm định độc lập, công khai dữ liệu chất lượng đào tạo để người học và xã hội giám sát. Đồng thời, tăng quyền tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình. Cơ chế này vừa bảo đảm chất lượng nhân lực, vừa tôn trọng quyền học tập, quyền tự chủ và cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở giáo dục”, LS Quang nói thêm.
Về phía chuyên môn đào tạo, TS Hoàng Ngọc Vinh cho rằng muốn siết thực chất, cần tập trung vào năm tiêu chí cốt lõi: Đội ngũ giảng viên có thực hành nghề; mạng lưới bệnh viện/trung tâm pháp lý bền vững; cơ sở vật chất đủ chuẩn; tỷ lệ sinh viên/giảng viên hợp lý và kiểm định chương trình độc lập – định kỳ. Trường không đạt thì phải dừng, bất kể đó là trường “chuyên” hay “không chuyên”.
“Thực tế cho thấy, không ít cử nhân luật, kể cả tốt nghiệp từ các cơ sở đào tạo chuyên ngành, vẫn lúng túng trong việc tra cứu văn bản pháp luật và soạn thảo đơn từ đúng chuẩn, cho thấy sự thiếu đồng bộ và hạn chế về tính ứng dụng trong chương trình học.
Việc đào tạo còn nặng lý thuyết, thiếu rèn luyện kỹ năng hành nghề cốt lõi, trong khi đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều, cơ chế đánh giá đầu ra chưa phản ánh đúng năng lực. Trước thực trạng đó, cần sớm xây dựng bộ chuẩn năng lực quốc gia và tổ chức kỳ thi sát hạch độc lập nhằm bảo đảm đầu ra đủ năng lực hành nghề”, luật sư Lê Bá Thường (Viện trưởng Viện Nghiên cứu Pháp luật và Văn hóa Doanh nghiệp) cho hay.
Theo Báo Giáo dục và Thời đại Online
Quảng Cáo Liên Quan

